Agricultural land là gì? Các công bố khoa học về Agricultural land

Agricultural land là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ đất nông nghiệp, tức là loại đất được sử dụng để trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi trang trại....

Agricultural land là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ đất nông nghiệp, tức là loại đất được sử dụng để trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi trang trại. Đây là loại đất đáp ứng các điều kiện để sản xuất nông nghiệp, bao gồm độ phì nhiêu cao, độ thoáng khí, độ thoát nước tốt và độ biến động của chất dinh dưỡng.
Agricultural land, hay đất nông nghiệp, được định nghĩa là bất kỳ khu vực nào trên mặt đất được sử dụng hoặc có tiềm năng sử dụng cho mục đích nông nghiệp. Đây là nơi mà cây trồng, thực vật, động vật và đồng cỏ được trồng hoặc nuôi dưỡng để sản xuất thực phẩm, nguyên liệu, sợi, gỗ và các sản phẩm liên quan đến nông nghiệp.

Để được coi là đất nông nghiệp, khu vực phải có những đặc điểm như:

1. Đất có sự phù hợp với sự phát triển của cây trồng: Đất nông nghiệp cần có độ phì nhiêu phù hợp, tức là có đủ chất dinh dưỡng và minh bạch để hỗ trợ sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.

2. Đất có khả năng thoát nước tốt: Sự thoát nước là quan trọng để tránh ngập úng và mục ruỗng của cây trồng, từ đó đảm bảo sự sinh trưởng và sản xuất hiệu quả.

3. Đất có khả năng thoáng khí: Độ thông khí là yếu tố quan trọng để cung cấp oxy cho rễ cây và hỗ trợ quá trình hô hấp của cây trồng.

4. Đất có độ biến đổi chất dinh dưỡng phù hợp: Đất cần có khả năng duy trì một mức độ sự thay đổi chất dinh dưỡng phù hợp để hỗ trợ sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.

Trên toàn cầu, các vùng đất nông nghiệp được sử dụng trong các mục đích nông nghiệp, từ trồng lúa, cây lương thực, rau, cà phê, cacao, đến chăn nuôi gia súc và nuôi trồng thủy sản. Đất nông nghiệp rất quan trọng cho sự an toàn thực phẩm, cung cấp nguồn lương thực, tạo ra thu nhập cho nông dân và đóng góp vào phát triển kinh tế của một quốc gia.
Để trở thành đất nông nghiệp, một khu vực cần đáp ứng một số yêu cầu kỹ thuật nhất định và có khả năng sản xuất nông nghiệp hiệu quả. Dưới đây là một số yếu tố quan trọng xác định đất nông nghiệp:

1. Độ phì nhiêu: Đất nông nghiệp cần có đủ cơ sở dinh dưỡng để hỗ trợ sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Độ phì nhiêu được đo bằng nồng độ các chất dinh dưỡng quan trọng như nitơ, photpho và kali.

2. Cấu trúc đất: Cấu trúc của đất, bao gồm hạt đất (đồng nhất hay không đồng nhất), khối lượng, độ cứng, độ thoáng khí và khả năng thoát nước, quyết định sự phát triển của hệ rễ cây trồng và khả năng thụ nước của đất.

3. Độ thoát nước: Khả năng thoát nước của đất là yếu tố quan trọng để quản lý lượng nước trong ruộng. Đất nông nghiệp cần có khả năng thoát nước tức thì sau mưa hoặc tưới tiêu, nhưng cũng giữ được độ ẩm đủ trong thời gian khô.

4. Độ thông khí: Khả năng thoáng khí của đất là quan trọng để cung cấp oxy cho rễ cây và quá trình hô hấp của cây. Đất nông nghiệp cần có độ thông khí cao để phát triển tốt.

5. Độ biến đổi chất dinh dưỡng: Đặc tính biến đổi của chất dinh dưỡng trong đất góp phần vào sản xuất nông nghiệp hiệu quả. Đất nông nghiệp cần có khả năng giữ chặt các chất dinh dưỡng và phân bón để cây trồng tiếp tục sử dụng.

Việc bảo vệ và quản lý đất nông nghiệp là rất quan trọng để duy trì sự sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường. Điều này bao gồm việc thúc đẩy các phương pháp canh tác bền vững và sử dụng tài nguyên đất và nước một cách hiệu quả, nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "agricultural land":

Farming the planet: 1. Geographic distribution of global agricultural lands in the year 2000
Global Biogeochemical Cycles - Tập 22 Số 1 - 2008

Agricultural activities have dramatically altered our planet's land surface. To understand the extent and spatial distribution of these changes, we have developed a new global data set of croplands and pastures circa 2000 by combining agricultural inventory data and satellite‐derived land cover data. The agricultural inventory data, with much greater spatial detail than previously available, is used to train a land cover classification data set obtained by merging two different satellite‐derived products (Boston University's MODIS‐derived land cover product and the GLC2000 data set). Our data are presented at 5 min (∼10 km) spatial resolution in longitude by longitude, have greater accuracy than previously available, and for the first time include statistical confidence intervals on the estimates. According to the data, there were 15.0 (90% confidence range of 12.2–17.1) million km2 of cropland (12% of the Earth's ice‐free land surface) and 28.0 (90% confidence range of 23.6–30.0) million km2 of pasture (22%) in the year 2000.

Sustainable pest regulation in agricultural landscapes: a review on landscape composition, biodiversity and natural pest control
Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences - Tập 273 Số 1595 - Trang 1715-1727 - 2006

Agricultural intensification has resulted in a simplification of agricultural landscapes by the expansion of agricultural land, enlargement of field size and removal of non-crop habitat. These changes are considered to be an important cause of the rapid decline in farmland biodiversity, with the remaining biodiversity concentrated in field edges and non-crop habitats. The simplification of landscape composition and the decline of biodiversity may affect the functioning of natural pest control because non-crop habitats provide requisites for a broad spectrum of natural enemies, and the exchange of natural enemies between crop and non-crop habitats is likely to be diminished in landscapes dominated by arable cropland. In this review, we test the hypothesis that natural pest control is enhanced in complex patchy landscapes with a high proportion of non-crop habitats as compared to simple large-scale landscapes with little associated non-crop habitat. In 74% and 45% of the studies reviewed, respectively, natural enemy populations were higher and pest pressure lower in complex landscapes versus simple landscapes. Landscape-driven pest suppression may result in lower crop injury, although this has rarely been documented. Enhanced natural enemy activity was associated with herbaceous habitats in 80% of the cases (e.g. fallows, field margins), and somewhat less often with wooded habitats (71%) and landscape patchiness (70%). The similar contributions of these landscape factors suggest that all are equally important in enhancing natural enemy populations. We conclude that diversified landscapes hold most potential for the conservation of biodiversity and sustaining the pest control function.

Does conversion of forest to agricultural land change soil carbon and nitrogen? a review of the literature
Global Change Biology - Tập 8 Số 2 - Trang 105-123 - 2002
Abstract

Soil carbon is a large component of the global carbon cycle and its management can significantly affect the atmospheric CO2 concentration. An important management issue is the extent of soil carbon (C) release when forest is converted to agricultural land. We reviewed the literature to assess changes in soil C upon conversion of forests to agricultural land. Analyses are confounded by changes in soil bulk density upon land‐use change, with agricultural soils on average having 13% higher bulk density. Consistent with earlier reviews, we found that conversion of forest to cultivated land led to an average loss of approximately 30% of soil C. When we restricted our analysis to studies that had used appropriate corrections for changes in bulk density, soil C loss was 22%. When, from all the studies compiled, we considered only studies reporting both soil C and nitrogen (N), average losses of C and N were 24% and 15%, respectively, hence showing a decrease in the average C : N ratio. The magnitude of these changes in the C : N ratio did not correlate with either C or N changes. When considering the transition from forest to pasture, there was no significant change in either soil C or N, even though reported changes in soil C ranged from −50% to +160%. Among studies that reported changes in soil N as well as soil C, C : N ratios both increased and decreased, with trends depending on changes in system N. Systems with increasing soil N generally had decreased C : N ratios, whereas systems with decreasing soil N had increased C : N ratios. Our survey confirmed earlier findings that conversion of forest to cropland generally leads to a loss of soil carbon, although the magnitude of change might have been inflated in many studies by the confounding influence of bulk‐density changes. In contrast, conversion of forest to uncultivated grazing land did not, on average, lead to loss of soil carbon, although individual sites may lose or gain soil C, depending on specific circumstances, such as application of fertiliser or retention or removal of plant residues.

Comparative biodiversity of rivers, streams, ditches and ponds in an agricultural landscape in Southern England
Biological Conservation - Tập 115 Số 2 - Trang 329-341 - 2004
Nitrous oxide emission from Australian agricultural lands and mitigation options: a review
Soil Research - Tập 41 Số 2 - Trang 165 - 2003

Increases in the concentrations of greenhouse gases, carbon dioxide (CO2), methane (CH4), nitrous oxide (N2O), and halocarbons in the atmosphere due to human activities are associated with global climate change. The concentration of N2O has increased by 16% since 1750. Although atmospheric concentration of N2O is much smaller (314 ppb in 1998) than of CO2 (365 ppm), its global warming potential (cumulative radiative forcing) is 296 times that of the latter in a 100-year time horizon. Currently, it contributes about 6% of the overall global warming effect but its contribution from the agricultural sector is about 16%. Of that, almost 80% of N2O is emitted from Australian agricultural lands, originating from N fertilisers (32%), soil disturbance (38%), and animal waste (30%). Nitrous oxide is primarily produced in soil by the activities of microorganisms during nitrification, and denitrification processes. The ratio of N2O to N2 production depends on oxygen supply or water-filled pore space, decomposable organic carbon, N substrate supply, temperature, and pH and salinity. N2O production from soil is sporadic both in time and space, and therefore, it is a challenge to scale up the measurements of N2O emission from a given location and time to regional and national levels.Estimates of N2O emissions from various agricultural systems vary widely. For example, in flooded rice in the Riverina Plains, N2O emissions ranged from 0.02% to 1.4% of fertiliser N applied, whereas in irrigated sugarcane crops, 15.4% of fertiliser was lost over a 4-day period. Nitrous oxide emissions from fertilised dairy pasture soils in Victoria range from 6 to 11 kg N2O-N/ha, whereas in arable cereal cropping, N2O emissions range from <0.01% to 9.9% of N fertiliser applications. Nitrous oxide emissions from soil nitrite and nitrates resulting from residual fertiliser and legumes are rarely studied but probably exceed those from fertilisers, due to frequent wetting and drying cycles over a longer period and larger area. In ley cropping systems, significant N2O losses could occur, from the accumulation of mainly nitrate-N, following mineralisation of organic N from legume-based pastures. Extensive grazed pastures and rangelands contribute annually about 0.2 kg N/ha as N2O (93 kg/ha per year CO2-equivalent). Tropical savannas probably contribute an order of magnitude more, including that from frequent fires. Unfertilised forestry systems may emit less but the fertilised plantations emit more N2O than the extensive grazed pastures. However, currently there are limited data to quantify N2O losses in systems under ley cropping, tropical savannas, and forestry in Australia. Overall, there is a need to examine the emission factors used in estimating national N2O emissions; for example, 1.25% of fertiliser or animal-excreted N appearing as N2O (IPCC 1996). The primary consideration for mitigating N2O emissions from agricultural lands is to match the supply of mineral N (from fertiliser applications, legume-fixed N, organic matter, or manures) to its spatial and temporal needs by crops/pastures/trees. Thus, when appropriate, mineral N supply should be regulated through slow-release (urease and/or nitrification inhibitors, physical coatings, or high C/N ratio materials) or split fertiliser application. Also, N use could be maximised by balancing other nutrient supplies to plants. Moreover, non-legume cover crops could be used to take up residual mineral N following N-fertilised main crops or mineral N accumulated following legume leys. For manure management, the most effective practice is the early application and immediate incorporation of manure into soil to reduce direct N2O emissions as well as secondary emissions from deposition of ammonia volatilised from manure and urine.Current models such as DNDC and DAYCENT can be used to simulate N2O production from soil after parameterisation with the local data, and appropriate modification and verification against the measured N2O emissions under different management practices.In summary, improved estimates of N2O emission from agricultural lands and mitigation options can be achieved by a directed national research program that is of considerable duration, covers sampling season and climate, and combines different techniques (chamber and micrometeorological) using high precision analytical instruments and simulation modelling, under a range of strategic activities in the agriculture sector.

Identification and quantification of macro- and microplastics on an agricultural farmland
Scientific Reports - Tập 8 Số 1
Abstract

Microplastic contamination of aquatic ecosystems is a high priority research topic, whereas the issue on terrestrial ecosystems has been widely neglected. At the same time, terrestrial ecosystems under human influence, such as agroecosystems, are likely to be contaminated by plastic debris. However, the extent of this contamination has not been determined at present. Via Fourier transform infrared (FTIR) analysis, we quantified for the first time the macro- and microplastic contamination on an agricultural farmland in southeast Germany. We found 206 macroplastic pieces per hectare and 0.34 ± 0.36 microplastic particles per kilogram dry weight of soil. In general, polyethylene was the most common polymer type, followed by polystyrene and polypropylene. Films and fragments were the dominating categories found for microplastics, whereas predominantly films were found for macroplastics. Since we intentionally chose a study site where microplastic-containing fertilizers and agricultural plastic applications were never used, our findings report on plastic contamination on a site which only receives conventional agricultural treatment. However, the contamination is probably higher in areas where agricultural plastic applications, like greenhouses, mulch, or silage films, or plastic-containing fertilizers (sewage sludge, biowaste composts) are applied. Hence, further research on the extent of this contamination is needed with special regard to different cultivation practices.

Manifestations and underlying drivers of agricultural land use change in Europe
Landscape and Urban Planning - Tập 133 - Trang 24-36 - 2015
Analysis of trends and agricultural drivers of farmland bird declines in North America: A review
Agriculture, Ecosystems & Environment - Tập 254 - Trang 244-254 - 2018
The impact of agricultural intensification and land-use change on the European arable flora
Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences - Tập 279 Số 1732 - Trang 1421-1429 - 2012

The impact of crop management and agricultural land use on the threat status of plants adapted to arable habitats was analysed using data from Red Lists of vascular plants assessed by national experts from 29 European countries. There was a positive relationship between national wheat yields and the numbers of rare, threatened or recently extinct arable plant species in each country. Variance in the relative proportions of species in different threat categories was significantly explained using a combination of fertilizer and herbicide use, with a greater percentage of the variance partitioned to fertilizers. Specialist species adapted to individual crops, such as flax, are among the most threatened. These species have declined across Europe in response to a reduction in the area grown for the crops on which they rely. The increased use of agro-chemicals, especially in central and northwestern Europe, has selected against a larger group of species adapted to habitats with intermediate fertility. There is an urgent need to implement successful conservation strategies to arrest the decline of this functionally distinct and increasingly threatened component of the European flora.

Policy reform and agricultural land abandonment in the EU
Land Use Policy - Tập 30 Số 1 - Trang 446-457 - 2013
Tổng số: 2,304   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10